Từ loài cây dân dã mọc dại trên núi, Ưng Bất Bạc vươn ra thế giới, trở thành dược liệu Việt đầu tiên mang 2 bằng sáng chế của Hoa Kỳ và Đài Loan, kết tinh trong công thức tối ưu giúp phục hồi và bảo vệ tế bào gan.
Câu chuyện lạ về cây dược liệu quý trên non cao
Người dân trên dải đất miền Trung và khu vực Tây Bắc (Nghệ An, Hà Tĩnh) vẫn lưu truyền câu chuyện ly kỳ về một loài cây mang cái tên kỳ lạ – “Ưng Bất Bạc”. Cây nhiều lá cứng, rậm rạp quanh năm, lá ngắn, gai lại sắc nhọn, khối lá trên cây như một “núi đao, biển kim”, làm cho chim không những không thể sinh sống mà còn sợ hãi.
Ở Việt Nam, cây Ưng Bất Bạc còn được gọi là Muồng truổng, Đơn gai, Truổng lá nhỏ, Sẻn đen, Sẻn quả ba cạnh, người Tày gọi là “Mạy khuống”, là vị thuốc chữa bệnh gan của dân tộc Tày, được người Tày ưa chuộng hơn so với những cây thuốc chuyên chữa bệnh gan khác (Theo PGS.TS Nguyễn Thượng Dong – Nguyên Viện trưởng Viện Dược liệu- Bộ Y tế).
Những truyền thuyết về loài cây này được truyền miệng từ đời này qua đời khác vốn đã ly kỳ, nhưng những nghiên cứu khoa học về tác dụng chữa bệnh thực sự của cây Ưng Bất Bạc mới đây lại càng khiến cho nhiều người bất ngờ.
Thảo dược “vàng” chữa bệnh từ ngàn năm được ghi chép trên nhiều tài liệu Y học
Mọc rải rác ở vùng núi cao các tỉnh miền Bắc và miền Trung. Từ ngàn năm trước, Ưng Bất Bạc được cộng đồng các dân tộc đào cây lấy rễ về chế biến, sắc uống chữa các bệnh viêm gan vàng da, viêm gan mạn, giúp bảo vệ và tái tạo tế bào gan bị tổn thương do rượu và hóa chất, hạ men gan, viêm gan virus B, khôi phục các chức năng của tế bào gan.
Từ thời nhà Tần-Hán năm 221 trước công nguyên, Ưng Bất Bạc đã trở thành vị thuốc lâu đời được ghi trong “Thần Nông bản thảo”- sách viết về Dược vật học đầu tiên của Trung Quốc. Người ta dùng rễ chữa viêm gan hoặc vàng da, viêm thận phù thũng, phong thấp đau nhức gân cốt, đòn ngã ứ đau. Quả dùng trị đau dạ dày, đau bụng. Lá dùng trị đòn ngã tổn thương, đau thắt lưng, viêm tuyến vú, nhọt, và viêm mủ da. (theo Từ điển Cây thuốc Việt Nam)
Các nhà thảo dược phương Tây cũng cho rằng, Ưng Bất Bạc kích thích máu lưu thông đến các tổ chức bị đau cứng, tăng cường cung cấp oxy và chất dinh dưỡng, loại bỏ chất bẩn, tăng cường lượng máu cần thiết đến tứ chi.
Còn theo Y văn cổ của Việt Nam và Trung Quốc, Ưng Bất Bạc có vị cay, đắng, tính ấm, quy vào các kinh can, tỳ, vị, có công năng: trừ phong, lợi thấp, hoạt huyết thông lạc, lợi niệu, tiêu thũng; dùng cho các bệnh nhân mắc các chứng viêm gan vàng da, viêm gan mạn tính, vàng da phù thũng, ngoài ra còn có tác dụng hoạt huyết, giảm đau.
“Người bảo vệ” lá gan
Theo thời gian, nhờ sự phát triển của khoa học hiện đại, các thành phần trong Ưng Bất Bạc đã được chứng minh có tác dụng vượt trội nhất trên gan, được xem như “người bảo vệ” của lá gan.
Nghiên cứu cho thấy, trong rễ Ưng Bất Bạc tồn tại một lúc cả 2 loại Flavonoid rất quan trọng là Hesperidin và Diosmin đem đến khả năng chống oxy hóa, chống tổn thương gan, giúp phục hồi và bảo vệ tế bào gan, ngăn ngừa xơ gan & ung thư gan. Đây được xem là một cặp đôi hoàn hảo trên gan:
Hesperidin đã được chứng minh có tác dụng phục hồi, tái tạo tế bào gan, ngăn ngừa xơ gan, ung thư gan. Các nhà nghiên cứu Ai Cập và Thái Lan chứng minh hoạt chất Hesperidin có khả năng chống oxy hóa tế bào gan, chống gốc tự do, ngăn ngừa tổn thương gan, viêm gan do hóa chất và thuốc tân dược trên mô hình COX1 và COX2, ngăn ngừa sự tạo thành colagen ở tế bào gan dẫn đến xơ gan và phòng ngừa gan nhiễm mỡ.
Diosmin có tác dụng làm giảm tổn thương tế bào gan do rượu, tăng cường chuyển hóa và đào thải ethanol, tăng cường chức năng gan, cải thiện các chỉ số glucose máu, cholesterol, ure máu và hạ men gan.
Cả Hesperidin và Diosmin cùng lúc được tìm thấy ở trong rễ cây của Ưng Bất Bạc, với hàm lượng cao hơn gấp nhiều lần so với lá, thân và cành. Đây cũng là lý do vì sao mà người dân thường lấy rễ về để sắc uống, phần lá và cành dùng để điều trị các trường hợp như mẩn ngứa, viêm loét ngoài da.
Tuy nhiên, việc sử dụng trực tiếp các bộ phận của cây Ưng Bất Bạc để sắc uống sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với sức khỏe như ngộ độc cấp tính hay mạn tính do chưa loại bỏ hết tạp chất, không kiểm soát được nguồn gốc dược liệu (ký sinh trùng, thuốc trừ sâu, mối mọt, nấm mốc). Chưa kể, liều lượng và tần suất sử dụng cũng chỉ qua truyền miệng dân gian, không được kê toa nên sẽ không phù hợp với từng tình trạng bệnh cụ thể. Trừ những vùng dược liệu đạt GACP (thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc hoang dã) thì các dược liệu tự nhiên khác vẫn có nguy cơ chứa thành phần không tốt và nếu dùng trực tiếp sẽ có thể đưa luôn cả những chất có hại vào trong cơ thể.
10 năm giải mã bí ẩn công dụng của Ưng Bất Bạc
Mất 10 năm để Ưng Bất Bạc được công nhận trên toàn thế giới, đi cùng với 10 năm đánh đổi thanh xuân của chàng thanh niên trẻ, khi ấy là Cử nhân ngành Dược học Trần Đức Dũng, mang theo khát khao nâng tầm giá trị thảo dược Việt ra xứ người.
Năm 2003, Ưng Bất Bạc được Tiến Sĩ Dũng mang sang Đài Loan, một quốc gia hàng đầu về chiết xuất dược liệu. Đài Loan gắn với những năm tháng khổ cực tận cùng nhưng cũng là nơi ghi nhận nhiều thành tựu vẻ vang khi các đề tài nghiên cứu về Ưng Bất Bạc lần lượt được nhận giải thưởng cao quý “Nghiên cứu Trung y dược Hứa Hồng Nguyên”, và trở thành dược liệu Việt đầu tiên được cấp bằng sáng chế tại Mỹ và Đài Loan với nhiều điểm ưu việt trong công nghệ chiết xuất.
Miệt mài nghiên cứu không ngừng nghỉ suốt hơn 10 năm, TS Dũng đã chứng minh được 4 nhóm tác dụng quan trọng của rễ Ưng Bất Bạc bao gồm:
- Bảo vệ tổn thương tế bào Gan do sử dụng rượu bia và thuốc tân dược trong thời gian dài.
- Kháng virus viêm Gan B, làm hạ men Gan, tái tạo và phục hồi các chức năng của Gan.
- Diệt tế bào ung thư Gan người thông qua cơ chế hoạt hóa protein, làm giảm sự phát triển của khối u.
- Ức chế sự sản sinh ra tế bào ung thư và ức chế sự tăng sinh, khả năng xâm lấn và các tín hiệu di căn của tế bào ung thư.
Những nghiên cứu của anh cũng cho thấy tác dụng vượt trội của Ưng Bất Bạc so với các dược liệu như giảo cổ lam, atiso, diệp hạ châu, cà gai leo trong bảo vệ và phục hồi tổn thương gan cho bệnh nhân viêm, xơ gan (bằng phương pháp gây độc tế bào MTT)
Sự kết hợp “vàng” cùng dược liệu số 1 thế giới trong điều trị bệnh gan
Nhắc đến dược liệu số 1 thế giới trong điều trị bệnh gan chính là nhắc đến Silybum marianum (cây Kế sữa) có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải và Đông Âu, được sử dụng hơn 2.000 năm trước từ thời La Mã để bảo vệ gan, tăng cường phục hồi chức năng gan nhờ hoạt chất Silymarin.
Tuy nhiên, Silymarin ít tan trong nước và dễ dàng bị phá hủy bởi dịch dạ dày nên khả năng hấp thu, tính hiệu quả gặp nhiều hạn chế. Để khắc phục điều đó, các nhà khoa học đã ứng dụng công nghệ hiện đại tạo nên Phosphocomplex tăng hấp thu và hiệu quả phục hồi gấp 100 lần so với Silymarin thông thường.
Một loạt các nghiên cứu tại Ý, Ấn Độ, Đức, Mỹ đã chứng minh Phosphocomplex có những tác động đặc hiệu tới gan bao gồm:
- Chống oxy hóa, bảo vệ tế bào gan
- Tăng hiệu quả chống viêm tại gan
- Hạ men gan
- Ngăn ngừa, hỗ trợ điều trị ung thư gan thông qua quá trình điều hòa chu trình tế bào, giảm độc tính hóa trị, xạ trị.
Kết tinh những thành tựu khoa học hiện đại, dược liệu quý Ưng Bất Bạc cùng Phosphocomplex tạo thành “cặp đôi vàng” cho khả năng phục hồi tổn thương do viêm gan, xơ gan. Công trình nghiên cứu hơn 1 thập kỷ nay được chắt lọc trong sản phẩm Heposal – Công thức chuyên biệt cho quá trình phục hồi và bảo vệ gan thông qua 3 cơ chế tác động:
- Bảo vệ tế bào gan trước các tác nhân có hại (virus viêm gan B,C, rượu bia, hóa chất)
- Ức chế phản ứng viêm tại gan
- Ngăn ngừa việc hình thành các tế bào gan xấu như ung thư gan, xơ gan
Heposal ra đời là sản phẩm đầu tiên tại Việt Nam có dịch chiết chuẩn hóa từ Ưng Bất Bạc kết hợp với Phosphocomplex – dạng bào chế công nghệ cao của Silymarine, khắc phục mọi nhược điểm của phương pháp thủ công, giúp giữ lại mọi tinh chất, loại bỏ tạp chất, hiệu quả gấp 100 lần so với Silymarine thông thường.
Kết hợp 2 thành phần quý nhất cho gan, Heposal được coi là hướng đi mới, đánh thức tiềm năng dược liệu quý ngàn năm Ưng Bất Bạc, chuyên chở niềm tin, mang theo “hy vọng vàng” cho những bệnh nhân xơ gan, ung thư gan, làm giảm tỷ lệ mắc mới và tử vong do các bệnh lý về gan ở Việt Nam.